Logo
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
Deposit Insurance of Vietnam
  • Giới thiệu
    • Thông điệp của Chủ tịch Hội đồng quản trị Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
    • Tổng quan về BHTGVN
    • Chức năng nhiệm vụ của BHTGVN
    • Cơ cấu tổ chức
      • Ban lãnh đạo qua các thời kỳ
      • Ban lãnh đạo hiện nay
      • Sơ đồ tổ chức
      • Mạng lưới BHTGVN
  • Dành cho người gửi tiền
    • Quyền lợi của người được BHTG
    • Mẫu chứng nhận tham gia BHTG
    • Danh sách tổ chức tham gia BHTG
    • Thủ tục nhận tiền bảo hiểm
  • Dành cho tổ chức tham gia BHTG
    • Thủ tục tham gia BHTG
    • Quyền lợi, nghĩa vụ của tổ chức tham gia BHTG
    • Hệ thống quản lý thu thập thông tin (ICM)
  • Thư viện
    • Video
    • Văn bản
      • Văn bản pháp luật về BHTG
      • Văn bản liên quan
      • Văn bản do BHTGVN ban hành
  • Thông tin báo chí
  • Ấn phẩm
    • Bản tin BHTG
    • Báo cáo thường niên
    • Ấn phẩm khác
  • Liên hệ
icon home Trang Chủ icon arrow Nghiên cứu - Trao đổi

Ổn định tài chính – nhìn từ góc độ ngân hàng trung ương và tổ chức bảo hiểm tiền gửi

Thứ 2 , 23/06/2014
 Đối với một ngân hàng trung ương (NHTW) hiện đại, vai trò ổn định tài chính và ổn định tiền tệ có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, được ví như hai mặt của một đồng xu. Trong giai đoạn trước khủng hoảng tài chính năm 2007-2009, các NHTW trên thế giới đã rất thành công trong việc duy trì ổn định tiền tệ thông qua việc kiểm soát tốt lạm phát. Tuy nhiên, khủng hoảng tài chính vừa qua như một hồi chuông cảnh tỉnh về vai trò quan trọng của việc duy trì ổn định tài chính của các NHTW (Schoenmaker, 2011). Trong bức tranh chung đó, hệ thống BHTG thông qua chức năng nhiệm vụ của mình, có thể góp phần tích cực hỗ trợ duy trì ổn định tài chính.

1. Vai trò của ngân hàng trung ương đối với việc duy trì ổn định tài chính – nhìn từ góc độ nguyên lý kinh tế

Theo ECB (2011), ổn định tài chính là bối cảnh trong đó hệ thống tài chính (bao gồm các trung gian tài chính, thị trường tài chính và cơ sở hạ tầng tài chính) có khả năng chống chọi với các cú sốc và tránh được tình trạng mất cân bằng tài chính. Qua đó, khả năng xảy ra các đổ vỡ trong quy trình trung gian tài chính có thể tác động nghiêm trọng đến việc phân bổ nguồn lực từ tiết kiệm sang các cơ hội đầu tư sinh lời được giảm bớt. Hiểu một cách đơn giản, một hệ thống tài chính ổn định là hệ thống tài chính có khả năng: i) phân bố hiệu quả nguồn lực kinh tế (dẫn đến tăng trưởng kinh tế, thịnh vượng xã hội …); ii) đánh giá, phân bổ và quản lý rủi ro tài chính một cách phù hợp; iii) hệ thống tài chính vẫn thực thi được các chức năng của mình ngay cả khi bị ảnh hưởng bởi các cú sốc bên ngoài (Cihak, 2006)

Nhiệm vụ duy trì ổn định tài chính đã được ghi nhận một cách rộng rãi là một chức năng thiết yếu của NHTW. Theo khảo sát của Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS), 90% NHTW trên thế giới trả lời họ có vai trò đầy đủ hoặc một phần vai trò đối với chính sách duy trì ổn định tài chính (BIS, 2008). Mặc dù không phải Luật NHTW nào cũng quy định một cách công khai nhiệm vụ duy trì ổn định tài chính, nhưng, khi NHTW thực thi nhiệm vụ cốt lõi nhất của mình (thực thi chính sách tiền tệ), thì mặc nhiên đã góp phần vào ổn định tài chính theo nguyên lý quốc gia có lạm phát ổn định sẽ có khả năng duy trì ổn định tài chính cao hơn. Bên cạnh đó, các chức năngkhác của NHTW như cấp phép, giám sát, hỗ trợ thanh khoản thông qua chức năng người cho vay cuối cùng, góp phần duy trì hệ thống thanh toán có trật tự cũng góp phần duy trì ổn định tài chính.

Bảng 1 miêu tả tổng thể khung chính sách ổn định thị trường tài chính. Để đạt được mục đích ổn định tổng thể của hệ thống, cần đạt được các mục tiêu:i) ổn định tiền tệ, ii) ổn định tài chính, iii) các tổ chức tài chính hoạt động lành mạnh, và iv) người tiêu dùng sử dụng dịch vụ tài chính được đối xử công bằng và được bảo vệ thích hợp. Theo Tinbergen, người đầu tiên được giải Nobel kinh tế, mỗi mục tiêu nói trên cần có một công cụ chính sách riêng; tuy nhiên, trên thực tế bản thân các mục tiêu và các công cụ nhằm duy trì ổn định tổng thể hệ thống đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Mặc dù có nhiều mô hình NHTW khác nhau, tuy nhiên, đối chiếu với các mục tiêu tại Bảng 1, NHTW đều có đóng góp tích cực ở các mức độ khác nhau đối với mục tiêu ổn định tài chính nói riêng và ổn định tổng thể nền kinh tế nói chung.

Ghi chú: Mũi tên liền thể hiện tác động trực tiếp, mũi tên đứt đoạn thể hiện tác động gián tiếp tới mục tiêu

Nguồn: The Role of Central Banks in Financial Stability (Schoenmaker, 2011)

 Nghiên cứu của BIS (2008) chỉ ra rằng NHTW tại các quốc gia mới nổi có vai trò quan trọng đối với ổn định tài chính do NHTW tại các quốc gia đang phát triển thường có chức năng nhiệm vụ rộng hơn so với NHTW tại các quốc gia phát triển (Xem Bảng 2[1]). Điều này xuất phát từ nguyên nhân trong một thị trường tài chính chưa phát triển hoàn thiện, NHTW thường có nguồn lực tốt hơn và có trách nhiệm cao hơn trong việc định hướng phát triển thị trường (vai trò này sẽ hạn chế hơn nếu thị trường đã phát triển hoàn thiện). Bên cạnh đó, tại một số quốc gia công nghiệp phát triển, NHTW có mức độ độc lập cao nhất và không thực thi chức năng giám sát (không có Vụ giám sát), NHTW vẫn thành lập Vụ ổn định tài chính hoặc một đơn vị trực thuộc độc lập, báo cáo trực tiếp lên Ban lãnh đạo của NHTW về các vấn đề ổn định tài chính. Điều này phản ánh sự nghiêm túc của NHTW trong việc duy trì ổn định tài chính.

Bảng 2. Mối quan hệ giữa chức năng của NHTW và trình độ phát triển ca quốc gia (Nguồn: BIS (2008)

2. Vai trò của ngân hàng trung ương đối với việc duy trì ổn định tài chính - nhìn từ thực tiễn khủng hoảng tài chính vừa qua

Theo Isarescu (2012), trước khủng hoảng việc “ổn định giá cả, kiểm soát lạm phát là (gần như) đủ để đảm bảo ổn định tài chính của NHTW”. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua được đánh giá là cuộc khủng hoảng chưa có tiền lệ và Chính phủ, NHTW, Mạng an toàn tài chính các quốc gia cũng đã áp dụng các giải pháp chính sách chưa có tiền lệ nhằm duy trì ổn định tài chính.

Tính vượt chuẩn thông thường, thậm chí chưa có tiền lệ của các giải pháp được nhiều NHTW thực hiện trong giai đoạn khủng hoảng vừa qua được tổng kết ở các khía cạnh chủ yếu sau đây:

-  Thứ nhất, hạ lãi suất xuống mức rất thấp để hỗ trợ hồi phục kinh tế. Về bản chất, lãi suất là công cụ cơ bản để thực thi chính sách tiền tệ của NHTW. Tuy nhiên, tính “vượt chuẩn” ở đây được thể hiện ở cường độ và mức độ rất mạnh của mức hạ lãi suất. Lãi suất tại các nền kinh tế chủ chốt hầu như đã được hạ xuống mức tiệm cận 0%, điều trước đây chỉ có NHTW Nhật áp dụng.

-  Thứ hai, triển khai các chương trình nới lỏng định lượng.Nới lỏng định lượng là giải pháp phi truyền thống được nhiều NHTW áp dụng khi các giải pháp truyền thống không phát huy hiệu quả. Theo đó, NHTW mua một số lượng lớn các tài sản tài chính từ các NHTM và các tổ chức tài chính khác, từ đó làm tăng cung tiền cho nền kinh tế. Trong cuộc khủng hoảng vừa qua, NHTW nhiều quốc gia đã tập trung mua các tài sản tài chính dài hạn khi việc mua các tài sản tài chính ngắn hạn đã không còn phát huy hiệu quả. Cần lưu ý, nới lỏng định lượng làm tăng quy mô bảng cân đối kế toán của NHTW.

-  Thứ ba, triển khai các chương trình nới lỏng định tính.Khác với nới lỏng định lượng, nới lỏng định tính không tăng thêm quy mô tài sản tài chính do NHTW nắm giữ, nhưng NHTW chuyển dịch cơ cấu tài sản tài chính sang nắm giữ các tài sản có mức thanh khoản kém hơn và rủi ro cao hơn. Căn nguyên của giải pháp này là trong khủng hoảng, rất ít nhà đầu tư có đủ nguồn lực và khẩu vị ưa thích rủi ro đầu tư vào loại tài sản này, và thị trường cần đến NHTW để tạo vòng luân chuyển cho các kênh tiền tệ[2].

Ngoài các giải pháp trên, NHTW còn áp dụng một số giải pháp phi truyền thống khác tùy vào thực tiễn từng quốc gia. Tựu trung lại, trong khủng hoảng, NHTW tại nhiều quốc gia đã linh hoạt chuyển từ trọng tâm kiểm soát giá cả sang trọng tâm ngăn chặn suy thoái kinh tế. Đây là sự điều chỉnh cần thiết trong bối cảnh niềm tin sụt giảm, kinh tế đình trệ và thanh khoản thị trường bị đóng băng. Có thể nói, cùng với các thành viên Mạng an toàn tài chính quốc gia, NHTW trên thế giới đã đóng góp tích cực vào việc từng bước khôi phục ổn định tài chính và ngăn ngừa suy thoái kinh tế.

3. Vai trò hỗ trợ, góp phần ổn định tài chính của hệ thống bảo hiểm tiền gửi

Hệ thống tài chính đã có những bước phát triển năng động, điển hình là xu hướng hoạt động đa lĩnh vực (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm giao thoa với nhau) và đa quốc gia. Vì vậy, mục tiêu ổn định tổng thể hệ thống tài chính khó có thể đạt được thông qua nỗ lực riêng của một cơ quan. Trong một thị trường tài chính phát triển đầy đủ, đòi hỏi các cơ quan quản lý, giám sát và các tổ chức thực thi chính sách công cần có sự phối hợp chặt chẽ với nhau, hoạt động như một khối thống nhất thông qua cơ chế phối hợp của Mạng an toàn tài chính quốc gia. Thông thường, Mạng an toàn tài chính quốc gia bao gồm các cơ quan chủ yếu: NHTW, Bộ tài chính, Cơ quan giám sát (có thể trực thuộc NHTW hoặc là một cơ quan độc lập) và tổ chức BHTG.

Mục tiêu chủ yếu của tổ chức bảo hiểm tiền gửi (BHTG) là góp phần vào sự ổn định của hệ thống tài chính và bảo vệ người gửi tiền ít hiểu biết về tài chính khi ngân hàng gặp vấn đề (IADI, 2006). Các quốc gia tùy thuộc vào đặc thù phát triển kinh tế và hệ thống ngân hàng xây dựng hệ thống bảo hiểm tiền gửi theo mô hình khác nhau. Tuy nhiên, theo FSB (2012), có 4 mô hình hệ thống BHTG cơ bản sau đây:

-  Mô hình chi trả: hệ thống BHTG có chức năng hẹp và có trách nhiệm chính là chi trả cho người gửi tiền được bảo hiểm khi xảy ra đổ vỡ ngân hàng

-  Mô hình chi trả với quyền hạn mở rộng: hệ thống BHTG có một số trách nhiệm bổ sung, ví dụ như chức năng xử lý ngân hàng đổ vỡ.

-  Mô hình giảm thiểu tổn thất: hệ thống BHTG chủ động tham gia lựa chọn phương án xử lý ngân hàng đổ vỡ phù hợp đảm bảo chiến lược xử lý với chi phí thấp nhất.

-  Mô hình giảm thiểu rủi ro: hệ thống BHTG có các chức năng giảm thiểu rủi ro tổng thể bao gồm đầy đủ chức năng xử lý ngân hàng đổ vỡ, đồng thời được bổ sung chức năng giám sát an toàn.

Hệ thống BHTG không được thiết kế để xử lý rủi ro tổng thể của hệ thống tài chính quốc gia (Sabourin, 2004) nhưng có thể tham gia tích cực góp phần duy trì ổn định tài chính. Mục tiêu cơ bản nhất trong việc góp phần ổn định tài chính của hệ thống BHTG là góp phần duy trì niềm tin của người gửi tiền. Cơ chế duy trì niềm tin của hệ thống BHTG được thực hiện qua công cụ hạn mức trả tiền bảo hiểm và tuyên truyền, phổ biến chính sách BHTG cho người dân. Qua đó, người gửi tiền được bảo vệ, vững tin hơn trước các tin đồn và tiếp tục gửi tiền vào hệ thống ngân hàng chính thức[3]. Bên cạnh đó, tùy vào mô hình BHTG tại các quốc gia khác nhau, hệ thống BHTG có thể được giao thêm các chức năng xử lý ngân hàng đổ vỡ, giám sát ngân hàng qua đó tạo thêm một lựa chọn chính sách cho Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước trong việc duy trì ổn định tài chính

Để có cái nhìn thực tiễn về vai trò góp phần duy trì ổn định tài chính của tổ chức BHTG, bài viết tổng kết nghiên cứu tình huống của hai quốc gia trong khu vực: Phillippines và Malaysia. Có thể thấy, hai quốc gia có trình độ phát triển tương đồng với Việt Nam đã có bước đi tích cực trong việc sử dụng chính sách BHTG hỗ trợ NHTW và các cơ quan quản lý nhà nước trong việc đảm bảo an toàn tài chính (Xem Bảng 3).

Bảng 3. Kinh nghiệm của Tổng công ty BHTG Phillippines và Malaysia trong việc góp phần duy trì ổn định tài chính

 

Tổng công ty BHTG Philippines (PDIC)

Tổng công ty BHTG Malaysia (PIDM)

Mục tiêu chính sách của hệ thống BHTG

Bảo vệ người gửi tiền, nâng cao niềm tin công chúng, góp phần thúc đẩy một hệ thống ngân hàng an toàn, lành mạnh.

BHTG cho người gửi tiền, tăng cường quản lý rủi ro và góp phần duy trì ổn định hệ thống tài chính

Sự phối hợp giữa NHTW và Tổ chức BHTG

PDIC phối hợp chặt chẽ với NHTW thực hiện kiểm tra tại chỗ các ngân hàng; điều tra các khiếu nại liên quan đến hoạt động ngân hàng không an toàn và lành mạnh.

 

Mối quan hệ giữa PIDM và NHTW được quy định trong Luật và được chi tiết trong Thỏa thuận liên minh chiến lược.

PIDM và NHTW tiến hành trao đổi thông tin kịp thời về các tổ chức thành viên và hợp tác trong tất cả các hoạt động quan trọng.

Tham gia quản lý

Thống đốc NHTW tham gia Hội đồng quản trị của PDIC

Thống đốc NHTW tham gia Hội đồng quản trị của PIDM

Vai trò hỗ trợ của Tổ chức BHTG nhằm duy trì ổn định tài chính

- Nâng cao niềm tin công chúng (tăng hạn mức từ 250.000 peso lên 500.000 peso).

- PDIC tiến hành kiểm tra và đánh giá ngân hàng,tham gia hỗ trợ tài chính cho các ngân hàng gặp vấn đề.

- PDIC là cơ quan tiến hành tiếp nhận và thanh lý ngân hàng đóng cửa khi có yêu cầu của Hội đồng tiền tệ của NHTW.

- Nâng cao niềm tin công chúng (tăng hạn mức từ 60.000 ringgit lên 250.000 ringgit).

- Hỗ trợ triển khai giám sát, tạo động lực triển khai quản trị rủi ro lành mạnh.

- Xử lý ngân hàng đổ vỡ thông qua công cụ hiện đại (cho vay, nắm cổ phần, NH bắc cầu) khi có thông báo của NHTW về việc ngân hàng không còn khả năng hoạt động

 Trong cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua, NHTW tại nhiều quốc gia đã thực thi các giải pháp truyền thống và cả các giải pháp chưa có tiền lệ để duy trì ổn định tài chính. Khủng hoảng là cơ hội để các nhà hoạch định chính sách thiết kế các cơ chế đảm bảo an toàn tài chính tốt hơn, thận trọng hơn và khẳng định vai trò cao hơn của NHTW trong việc ngăn ngừa khủng hoảng và ổn định kinh tế. Đối với hệ thống BHTG, việc xây dựng cơ chế BHTG hiệu quả, phù hợp với đặc thù phát triển của quốc gia là cần thiết. BHTG như là “của để dành” (quỹ BHTG được chính các ngân hàng đóng góp) để trong trường hợp xảy ra khó khăn trong hệ thống ngân hàng, Nhà nước có thêm lựa chọn chính sách nhằm bảo vệ người gửi tiền, nhằm triển khai các nghiệp vụ kiểm soát đặc biệt theo nguyên tắc hạn chế sử dụng ngân sách nhà nước.

 TS. Nguyễn Văn Thạnh - Chủ tịch HĐQT BHTGVN

(Tham luận tại hội thảo “Vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với sự ổn định của khu vực tài chính” do Ngân hàng Nhà nước tổ chức ngày 30/5/2014)

 TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. BIS (2009). Issues in the Governance of Central Banks. Report of Central Bank Governance Group.

2. FSB (2010). Update on Unwinding Temporary Deposit Insurance Arrangements. Reports of the IADI and IMF to the Financial Stability Board.

3. IADI (2006). General Guidance to Promote Effective Interrelationships among Financial Safety Net Participants.

4.  Isarescu, M. (2012). Post-crisis monetary policy: re-arrangement of objectives and tools. Andrei Șaguna University

5.  Malaysia Deposit Insurance Corporation – Deposit Insurance Handbook

6. Phillippines Deposit Insurance Corporation Profile

7. Preda, G. (2014). Considering Regarding Unconventional Monetary Policies of Central Banks during the Present Financial Crisis. Internal Auditing and Risk Management.

8. Schoenmaker, D. (2011). The Role of Central Banks in Financial Stability. Encyclopedia of Financial Globalization.


[1]Giải thích: Trình độ phát triển của quốc gia (trục hoành) được đo bằng GDP bình quân đầu người, chức năng nhiệm vụ của NHTW (trục tung) được xếp từ thang điểm 0 -> 1 theo nguyên tắc NHTW có điểm bằng 0 là NHTW có ít chức năng nhệm vụ nhất.

[2]Theo giải thích của Tạp chí Financial Times

[3]. Theo FSB (2010), có 48 quốc gia, vùng lãnh thổ đã điều chỉnh hạn mức BHTG trong cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua.

 

Các tin khác

Tiền gửi dân cư tăng gần 6% so với đầu năm
Tiền gửi dân cư tăng gần 6% so với đầu năm

Theo số liệu vừa được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố, đến cuối tháng 3/2025, tiền gửi của dân cư đạt 7,47 triệu tỷ đồng, tăng 5,73% so với đầu năm. Tính riêng trong tháng 3, tiền gửi cư dân đã tăng thêm khoảng hơn 103.800 tỷ đồng.

Sửa đổi chính sách quản lý thị trường vàng: Tôn trọng quyền sở hữu, quyền tài sản và quyền tự do kinh doanh
Sửa đổi chính sách quản lý thị trường vàng: Tôn trọng quyền sở hữu, quyền tài sản và quyền tự do kinh doanh

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đang lấy ý kiến đối với Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ...

Sẽ xóa độc quyền sản xuất vàng miếng
Sẽ xóa độc quyền sản xuất vàng miếng

Thời gian qua, cơ chế, chính sách quản lý thị trường vàng ở Việt Nam từng bước được hoàn...

Sửa đổi Luật Các Tổ chức tín dụng: Tăng khả năng tiếp cận tín dụng của cá nhân và doanh nghiệp
Sửa đổi Luật Các Tổ chức tín dụng: Tăng khả năng tiếp cận tín dụng của cá nhân và doanh nghiệp

Sáng ngày 10/6, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Nguyễn Thị Hồng đã trình bày...

Ứng dụng truyền thông đa phương tiện trong tuyên truyền chính sách bảo hiểm tiền gửi – Từ thực tiễn triển khai tại Chi nhánh BHTGVN khu vực Đông Bắc Bộ
Ứng dụng truyền thông đa phương tiện trong tuyên truyền chính sách bảo hiểm tiền gửi – Từ thực tiễn triển khai tại Chi nhánh BHTGVN khu vực Đông Bắc Bộ

Trong những năm qua, Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) khu vực Đông Bắc Bộ đã...

TIN ĐỌC NHIỀU
  • Bổ nhiệm lại Chủ tịch Hội đồng quản trị Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam Phạm Bảo Lâm
  • Tiền gửi dân cư tăng gần 6% so với đầu năm
  • Sử dụng dịch vụ ví điện tử thanh toán linh hoạt và an toàn
  • Công đoàn cơ sở Chi nhánh BHTGVN tại TP. Đà Nẵng giao lưu thể thao chào mừng đại hội Đảng các cấp
  • Sửa đổi chính sách quản lý thị trường vàng: Tôn trọng quyền sở hữu, quyền tài sản và quyền tự do kinh doanh
  • Những vấn đề đặt ra trong xây dựng Luật bảo hiểm tiền gửi (sửa đổi)
  • Hành trình tri ân: “Về chiến trường xưa - Vang vọng ký ức và lòng biết ơn"
  • BHTGVN trao tặng máy tính và thiết bị mạng tin học cho Trường Tiểu học Lay Nưa, thị xã Mường Lay, tỉnh Điện Biên
  • Sẽ xóa độc quyền sản xuất vàng miếng
  • Sửa đổi Luật Các Tổ chức tín dụng: Tăng khả năng tiếp cận tín dụng của cá nhân và doanh nghiệp
Quản lý ấn phẩm
Bản tin Bảo hiểm tiền gửi số 67 Quý I năm 2025
	Bản tin Bảo hiểm tiền gửi số 66 Quý IV năm 2024
Bản tin Bảo hiểm tiền gửi số 65 Quý III năm 2024
Annual Report 2023
Bản tin Bảo hiểm tiền gửi số 64 Quý II năm 2024
	Bản tin Bảo hiểm tiền gửi số 63 Quý I năm 2024
Bản tin Bảo hiểm tiền gửi số 62 Quý IV năm 2023
Annual Report 2022
Bản tin Bảo hiểm tiền gửi  số 61 Quý III năm 2023
 Bản tin Bảo hiểm tiền gửi  số 60 Quý II năm 2023
Bản tin Bảo hiểm tiền gửi  số 59 Quý I năm 2023
Bản tin bảo hiểm tiền gửi số 58 - Quý IV năm 2022
Bản tin bảo hiểm tiền gửi số 57 - Quý III năm 2022
Bản tin bảo hiểm tiền gửi số 56 - Quý II năm 2022
Bản tin bảo hiểm tiền gửi số 55 - Quý I năm 2022
Bản tin Bảo hiểm tiền gửi số 55 Quý I năm 2022
Bản tin bảo hiểm tiền gửi số 54 - Quý IV năm 2021
Annual Report 2021
Bản tin bảo hiểm tiền gửi số 53 - Quý III năm 2021
Bản tin bảo hiểm tiền gửi số 52 - Quý II năm 2021

Chịu trách nhiệm nội dung website: ThS. Đặng Duy Cường

©Bản quyền 2022 được bảo lưu bởi Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam

Lô D20 Đường Tôn Thất Thuyết, P. Dịch Vọng Hậu, Q. Cầu Giấy, TP. Hà Nội.
(84-24)3974 2886
banbientap@div.gov.vn
  • Giới thiệu
    • Thông điệp của Chủ tịch Hội đồng quản trị Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
    • Tổng quan về BHTGVN
    • Chức năng nhiệm vụ của BHTGVN
    • Cơ cấu tổ chức
      • Ban lãnh đạo qua các thời kỳ
      • Ban lãnh đạo hiện nay
      • Sơ đồ tổ chức
      • Mạng lưới BHTGVN
  • Dành cho người gửi tiền
    • Quyền lợi của người được BHTG
    • Mẫu chứng nhận tham gia BHTG
    • Danh sách tổ chức tham gia BHTG
    • Thủ tục nhận tiền bảo hiểm
  • Dành cho tổ chức tham gia BHTG
    • Thủ tục tham gia BHTG
    • Quyền lợi, nghĩa vụ của tổ chức tham gia BHTG
    • Hệ thống quản lý thu thập thông tin (ICM)
  • Thư viện
    • Video
    • Văn bản
      • Văn bản pháp luật về BHTG
      • Văn bản liên quan
      • Văn bản do BHTGVN ban hành
  • Thông tin báo chí
  • Ấn phẩm
    • Bản tin BHTG
    • Báo cáo thường niên
    • Ấn phẩm khác
  • Liên hệ