Sống trong một thời đại đầy phong ba bão táp, cuộc đời của Nguyễn Du cũng vì thế mà ba chìm bảy nổi. Mười một tuổi mồ côi cha, mười ba tuổi mẹ chết, ông phải sống ở nhà anh cả Nguyễn Khản. Do tình hình đất nước biến động, chính quyền Lê - Trịnh sụp đổ, Tây Sơn quét sạch giặc Thanh, họ Nguyễn ở Tiên Điền cũng tiêu điều “Hồng Lĩnh vô gia, huynh đệ tán”. Ông phải lưu lạc nhiều nơi, một thời kỳ dài nương nhờ quê vợ ở Thái Bình, cuối cùng đành trở về quê nhà tìm kế mưu sinh. Sau khi Gia Long lên ngôi, Nguyễn Du trở lại chốn quan trường. 18 năm làm quan cho triều Nguyễn nhưng cũng hơn 3 lần ông xin cáo quan về quê, khi thì lấy cớ dưỡng bệnh, lúc lại bận việc nhà... Trong một đợt dịch tả vào năm Minh Mệnh nguyên niên, ông bị nhiễm bệnh rồi mất tại kinh thành Huế ở tuổi 55.

Nguyễn Du là một “ngôi sao sáng” trên bầu trời văn học trung đại Việt Nam, một Danh nhân văn hóa được cả thế giới biết đến và công nhận. Tác phẩm “Truyện Kiều” của ông đã trở thành một tài sản văn học chung của thế giới, được dịch ra hàng chục thứ tiếng khác nhau.

Trong lịch sử văn học Việt Nam, hiếm có tác phẩm nào đạt được sức sống lâu bền, độ lan tỏa sâu rộng và tầm ảnh hưởng văn hóa mạnh mẽ như Truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du. Hơn hai thế kỷ kể từ khi ra đời, kiệt tác này vẫn hiện diện bền bỉ và sinh động trong đời sống tinh thần dân tộc, từ học đường, sân khấu, âm nhạc cho đến ngôn ngữ giao tiếp thường ngày. Sức sống ấy không chỉ bắt nguồn từ giá trị nghệ thuật đặc sắc, mà trước hết được nuôi dưỡng bởi chiều sâu tư tưởng nhân văn, tiến bộ và giàu tính nhân loại.
Bàn về Truyện Kiều cũng chính là bàn về tầm vóc trí tuệ, nhân cách và trách nhiệm xã hội của Nguyễn Du - một nhà thơ lớn, một trí thức ưu thời mẫn thế, người đã dùng văn chương như một phương tiện đối thoại với thời đại của mình và với cả những thế hệ mai sau.
Giá trị tư tưởng cốt lõi làm nên sức sống lâu bền của Truyện Kiều chính là chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc. Nguyễn Du không viết để mua vui, cũng không chỉ kể lại một câu chuyện tình éo le, mà thông qua số phận Thúy Kiều, ông cất lên tiếng nói thương người đến tận cùng. Đó là sự cảm thông sâu sắc đối với những thân phận nhỏ bé, bị chà đạp trong xã hội phong kiến đầy bất công, nơi đồng tiền và quyền lực thao túng công lý, nơi con người bị tước đoạt quyền sống và quyền làm người.
Thúy Kiều - người con gái “tài sắc vẹn toàn” - không chỉ là nạn nhân của số phận cá nhân mà còn là biểu tượng cho bi kịch chung của con người trong xã hội phong kiến. Từ một thiếu nữ sống trong khuê các, Kiều bị đẩy vào vòng xoáy lưu lạc, lừa lọc và áp bức, bị tước đoạt cả quyền yêu thương, quyền tự do và nhân phẩm. Nguyễn Du đã khóc cho Kiều bằng chính nỗi đau của mình, qua đó phản chiếu nỗi đau của hàng vạn số phận con người cùng thời.
Đáng chú ý, tiếng nói nhân đạo trong Truyện Kiều không dừng ở sự thương xót cảm tính mà còn mang tính phê phán hiện thực sâu sắc. Bằng ngòi bút giàu cảm xúc và tinh tế, Nguyễn Du phơi bày bộ mặt thật của xã hội phong kiến - nơi luật pháp bị mua chuộc, đạo lý bị đảo lộn, con người bị biến thành món hàng trao đổi. Chính chiều sâu hiện thực ấy đã giúp Truyện Kiều vượt ra khỏi giới hạn của một tác phẩm văn học trung đại, trở thành tiếng nói phản tỉnh xã hội có giá trị lâu dài.
Một điểm tiến bộ nổi bật trong tư tưởng Nguyễn Du là ông không nhìn con người chỉ như những nạn nhân đáng thương, mà còn đề cao nhân phẩm, tài năng và khát vọng sống chính đáng của họ. Thúy Kiều hiện lên vừa là người con hiếu thảo, người phụ nữ thủy chung, vừa là một nghệ sĩ tài hoa, giàu ý thức về nhân cách và giá trị bản thân.
Ngay cả khi bị dồn ép đến tận cùng, Kiều vẫn không hoàn toàn buông xuôi trước số phận. Dù nhiều lần rơi vào tuyệt vọng, nàng vẫn khát khao được sống tử tế, được làm người đúng nghĩa. Qua đó, Nguyễn Du gửi gắm một thông điệp nhân văn có ý nghĩa vượt thời đại: con người có thể bị vùi dập về thể xác, nhưng giá trị nhân phẩm và khát vọng sống chân chính không dễ bị hủy diệt.
Chính tư tưởng ấy đã khiến Truyện Kiều không chỉ là bản bi ca về số phận, mà còn là bài ca về sức sống tinh thần mãnh liệt của con người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đây cũng là lý do khiến tác phẩm chạm đến trái tim của đông đảo người đọc hôm nay, dù hoàn cảnh lịch sử đã có nhiều đổi thay.
Nếu tư tưởng nhân đạo làm nên chiều sâu của Truyện Kiều, thì giá trị nghệ thuật đặc sắc đã tạo nên hình thức hoàn mỹ cho chiều sâu ấy. Trước hết, Nguyễn Du đã đưa thể thơ lục bát - thể thơ dân tộc - lên đỉnh cao rực rỡ. Với hơn ba nghìn câu thơ, Truyện Kiều cho thấy khả năng vận dụng lục bát vô cùng linh hoạt, uyển chuyển, phù hợp với mọi cung bậc cảm xúc, từ trữ tình sâu lắng đến bi kịch đớn đau.
Ngôn ngữ thơ vừa trang nhã, giàu tính bác học, vừa gần gũi đời sống, kết hợp hài hòa giữa tinh hoa văn học dân gian và văn học viết. Chính sự dung hòa này đã giúp Truyện Kiều dễ đi vào lòng người, trở thành một tác phẩm mang tính “quốc dân”, được truyền tụng rộng rãi qua nhiều thế hệ.
Đặc biệt, Nguyễn Du được đánh giá là bậc thầy trong nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật. Nội tâm Thúy Kiều được khắc họa tinh tế qua ánh mắt, tiếng đàn, giọt nước mắt và những khoảng lặng đầy ám ảnh. Không cần những lời bình luận trực tiếp, nhà thơ để nhân vật tự bộc lộ chiều sâu tâm lý qua hành động và cảm xúc, tạo nên giá trị nghệ thuật hiếm có trong văn học trung đại Việt Nam. Chính sự hòa quyện nhuần nhuyễn giữa hình thức nghệ thuật tinh luyện và chiều sâu cảm xúc nhân văn ấy đã đưa Truyện Kiều trở thành đỉnh cao rực rỡ của văn học dân tộc.
Nhiều câu thơ trong Truyện Kiều đã vượt ra khỏi khuôn khổ văn chương để trở thành thành ngữ, lời ăn tiếng nói quen thuộc của người Việt. Điều đó cho thấy sức sống mạnh mẽ và ảnh hưởng sâu rộng của ngôn ngữ Nguyễn Du trong đời sống văn hóa dân tộc. Không thể nhìn Truyện Kiều như một hiện tượng đơn lẻ, tách rời khỏi toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du. Các tác phẩm chữ Hán như Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục giúp người đọc hiểu rõ hơn chân dung tư tưởng và nhân cách của ông.
Trong Thanh Hiên thi tập, nỗi cô đơn và day dứt của một trí thức sống giữa thời loạn được khắc họa, mang hoài bão lớn nhưng bất lực trước thực tại. Nam Trung tạp ngâm là tiếng lòng của người xa quê, thấm đẫm tình thương dân và nỗi buồn thời thế. Đặc biệt, Bắc hành tạp lục thể hiện tầm nhìn rộng mở và chiều sâu nhân văn mang tính nhân loại, khi Nguyễn Du cảm thương cho những số phận tài hoa bạc mệnh trong lịch sử, đồng thời bộc lộ ý thức dân tộc sâu sắc.
Nhìn tổng thể có thể khẳng định, Truyện Kiều là kết tinh cao nhất của tư tưởng nhân đạo và nghệ thuật ngôn từ Nguyễn Du, nhưng những giá trị ấy đã được hun đúc từ cả một đời suy tư, trải nghiệm và trăn trở của nhà thơ. Hơn hai trăm năm đã trôi qua, xã hội đã nhiều đổi thay, nhưng Truyện Kiều vẫn không hề cũ. Tác phẩm đặt ra những vấn đề mang tính muôn thuở: số phận con người, công lý xã hội, giá trị nhân phẩm và khát vọng hạnh phúc. Đọc Truyện Kiều hôm nay, người đọc không chỉ thưởng thức vẻ đẹp ngôn từ mà còn được nhắc nhở về trách nhiệm của xã hội đối với con người, đặc biệt là những người yếu thế. Vì vậy, Truyện Kiều không chỉ là niềm tự hào của văn học Việt Nam mà còn là di sản văn hóa tinh thần có giá trị giáo dục sâu sắc, góp phần bồi dưỡng nhân cách, nuôi dưỡng lòng nhân ái và ý thức công bằng trong xã hội hiện đại.

Trong bối cảnh xã hội hiện đại nhiều biến động, những giá trị nhân văn mà Truyện Kiều gửi gắm vẫn giữ nguyên ý nghĩa thời sự, nhắc nhở con người biết sống nhân ái, tôn trọng nhân phẩm và công bằng xã hội. Giữ gìn, nghiên cứu và lan tỏa giá trị của Truyện Kiều và toàn bộ di sản văn học Nguyễn Du không chỉ là trách nhiệm của giới nghiên cứu, mà còn là trách nhiệm chung trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ hội nhập và phát triển.
Trong những ngày đầu xuân 2025, nhân dịp kỉ niệm 115 năm ngày Quốc tế Phụ nữ (08/3/1910 - 08/3/2025) và kỷ niệm 260 năm Ngày sinh Đại thi hào Nguyễn Du (1765-2025), Chi nhánh BHTGVN khu vực Bắc Trung Bộ đã tổ chức lễ dâng hoa, dâng hương tưởng niệm tại khu di tích Quốc gia đặc biệt Đại thi hào Nguyễn Du, thị trấn Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Tại buổi lễ, đoàn viên công đoàn Chi nhánh đã được hiểu sâu hơn về những giá trị di sản văn hoá mà Đại thi hào và Truyện Kiều đã để lại qua giới thiệu của đại diện Ban Quản lý Di tích. Trong không khí trang nghiêm, đoàn thành kính dâng hương, dâng hoa bày tỏ lòng biết ơn và tôn vinh những giá trị văn hoá mà Đại thi hào Nguyễn Du cùng dòng họ Nguyễn Tiên Điền đã để lại cho quê hương, dân tộc và văn hoá thế giới.

Đảng bộ Chi nhánh BHTGVN khu vực Bắc Trung Bộ



