Vai trò của tổ chức BHTG trong Mạng an toàn tài chính
Tùy thuộc vào khuôn khổ thể chế và pháp lý tại từng quốc gia, tổ chức BHTG sẽ có nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau dựa trên mô hình hoạt động của mỗi tổ chức, điều này sẽ quyết định vai trò của tổ chức BHTG trong Mạng an toàn tài chính. Nhiệm vụ của tổ chức BHTG có thể dao động từ mô hình “chi trả” (paybox) chỉ chịu trách nhiệm chi trả tiền gửi được bảo hiểm đến “chi trả với quyền hạn mở rộng” (paybox plus), “giảm thiểu tổn thất” (loss minimizer) và “giảm thiểu rủi ro” (risk minimizer). Trong đó, ngoại trừ mô hình chi trả, các tổ chức BHTG hoạt động với mô hình mở rộng còn có nhiệm vụ giám sát, can thiệp sớm và tham gia xử lý ngân hàng đổ vỡ ở các mức độ khác nhau.
Trên quy mô toàn cầu, nhiệm vụ của tổ chức BHTG có xu hướng mở rộng đáng kể. Tỷ lệ tổ chức BHTG hoạt động theo mô hình chi trả đơn thuần giảm từ 25% (năm 2014) xuống còn 11% (năm 2024). Ngược lại, tỷ lệ tổ chức BHTG với nhiệm vụ chi trả mở rộng trở lên (có vai trò trong công tác xử lý ngân hàng đổ vỡ), tăng từ 75% (năm 2014) lên 89% (năm 2024). Điều này cho thấy vai trò ngày càng lớn của tổ chức BHTG trong hệ thống tài chính – ngân hàng quốc gia.
Liên hệ với Việt Nam
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) được thành lập vào năm 1999, là tổ chức duy nhất thực hiện chức năng BHTG tại Việt Nam. BHTGVN hoạt động theo mô hình chi trả mở rộng, theo đó ngoài các chức năng cốt lõi như: chi trả BHTG; quản lý và sử dụng quỹ BHTG an toàn, hiệu quả; thu phí BHTG; BHTGVN còn theo dõi, kiểm tra việc chấp hành quy định pháp luật về BHTG; giám sát an toàn hoạt động các tổ chức tham BHTG thông qua việc tổng hợp, phân tích, xử lý thông tin của các tổ chức tham gia BHTG nhằm phát hiện, cảnh báo sớm, kiến nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) xử lý kịp thời các vi phạm và rủi ro tiềm ẩn; đồng thời tham gia vào quá trình kiểm soát đặc biệt (KSĐB) đối với tổ chức tham gia BHTG. Qua hơn 25 năm xây dựng và phát triển, BHTGVN hiện đang bảo vệ cho hơn 127 triệu lượt người gửi tiền tại 1.277 tổ chức tham gia BHTG, góp phần quan trọng bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh và bền vững của hệ thống ngân hàng.
Thực tiễn triển khai công tác phối hợp trao đổi thông tin giữa BHTGVN với NHNN
Theo quy định tại Điều 34 Luật BHTG (2012), BHTGVN được phép tiếp cận dữ liệu thông tin của NHNN về tổ chức tham gia BHTG để thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Luật. NHNN có trách nhiệm để tổ chức BHTG tiếp cận dữ liệu thông tin về tổ chức tham gia BHTG theo quy định của Chính phủ. Đây là cơ sở để BHTGVN chủ động phối hợp, trao đổi thông tin kịp thời với các đơn vị chức năng thuộc NHNN nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ của mình, như:
Về công tác giám sát, BHTGVN hiện đang thực hiện trao đổi, cung cấp thông tin với NHNN theo Thông tư số 34/2016/TT-NHNN. Theo đó, BHTGVN được tiếp cận, khai thác từ kho dữ liệu của NHNN đối với các thông tin về báo cáo tài chính, chỉ tiêu và báo cáo thống kê… của tổ chức tham gia BHTG cùng cơ chế tiếp nhận thông tin về tổ chức tham gia BHTG có nguy cơ mất khả năng chi trả. Bên cạnh đó, đầu năm 2025 BHTGVN đã ký kết Thỏa thuận cung cấp thông tin, hỗ trợ hoạt động BHTG với Trung tâm Thông tin tín dụng quốc gia (CIC) về thông tin tín dụng của một số đơn vị nằm trong diện KSĐB thông qua Cơ sở dữ liệu trung gian DB Gateway của NHNN. Đây là những nguồn thông tin, dữ liệu đầu vào quan trọng phục vụ cho công tác giám sát, cảnh báo sớm của BHTGVN.
Về công tác kiểm tra, hằng năm BHTGVN xây dựng kế hoạch kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật về BHTG đối với tổ chức tham gia BHTG. Đặc biệt, từ năm 2019, trên cơ sở chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc NHNN đã giao BHTGVN thực hiện kiểm tra chuyên sâu đối với các quỹ tín dụng nhân dân (QTDND). Trong quá trình kiểm tra, BHTGVN luôn chủ động phối hợp chặt chẽ và thực hiện chế độ báo cáo kịp thời với NHNN chi nhánh khu vực để nắm bắt thông tin, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng; đồng thời cũng có những khuyến nghị với NHNN xem xét chỉnh sửa một số cơ chế, chính sách, đặc biệt là đối với hoạt động của hệ thống QTDND.
Ngoài ra, từ năm 2021, BHTGVN đã xây dựng và thực hiện ký kết Khung Quy chế phối hợp, cung cấp, trao đổi thông tin giữa Chi nhánh BHTGVN và 57/57 NHNN Chi nhánh tỉnh, thành phố (trước khi NHNN cơ cấu lại bộ máy hoạt động) có QTDND trên địa bàn hoạt động. Theo đó, công tác phối hợp, trao đổi, cung cấp thông tin giữa BHTGVN và NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố ngày càng được củng cố và tăng cường, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mỗi bên.
Về tham gia xử lý TCTD yếu kém, BHTGVN theo dõi và cử cán bộ tham gia Ban KSĐB tại các QTDND được KSĐB theo yêu cầu của NHNN; thường xuyên cập nhật diễn biến hoạt động cũng như xác định số tiền dự kiến chi trả tại các QTDND để kịp thời tham mưu, đề xuất xử lý các tình huống phát sinh. Hiện nay, BHTGVN đang theo dõi và cử các cán bộ tham gia các Ban KSĐB tại các QTDND được đặt vào KSĐB; tham gia đánh giá tính khả thi của phương án phục hồi đối với QTDND; thực hiện cử nhân sự tham gia quản trị, điều hành QTDND được KSĐB và cung cấp thông tin/số liệu theo yêu cầu của NHNN, Ban KSĐB trong quá trình KSĐB tại QTDND.
Nhìn chung, việc NHNN hỗ trợ và cung cấp, chia sẻ thông tin đã tạo điều kiện quan trọng giúp BHTGVN thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong công tác giám sát, kiểm tra, tham gia quá trình cơ cấu lại các TCTD yếu kém..., qua đó khẳng định vai trò là một công cụ hữu hiệu của NHNN trong việc bảo vệ người gửi tiền và duy trì ổn định hệ thống tài chính. Tuy nhiên, hiện nay chưa có quy định về việc phối hợp giữa NHNN và BHTGVN khi phát hiện tổ chức tham gia BHTG có nguy cơ mất khả năng chi trả. Bên cạnh đó, trong thực tế quá trình tham gia xử lý TCTD yếu kém, BHTGVN chưa được tiếp nhận đầy đủ, kịp thời các thông tin KSĐB theo từ Ban KSĐB và từ NHNN Chi nhánh khu vực về diễn biến, tình hình hoạt động của QTDND được KSĐB. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả tham gia xử lý TCTD yếu kém, cũng như hạn chế phần nào việc phát huy tối đa vai trò của tổ chức BHTG.
Những yêu cầu, nhiệm vụ mới đặt ra theo Luật Các TCTD (2024) và Dự thảo Luật BHTG (sửa đổi)
Bên cạnh việc triển khai các nhiệm vụ theo quy định Luật BHTG hiện hành, Luật Các TCTD (2024) cũng đã giao một số nhiệm vụ cho BHTGVN trong việc tham gia sâu hơn vào quá trình cơ cấu lại các TCTD yếu kém như: can thiệp sớm thông qua cho vay đặc biệt TCTD bị rút tiền hàng loạt; cho vay đặc biệt TCTD yếu kém; tham gia đánh giá tính khả thi của phương án phục hồi QTDND; tham gia xây dựng phương án phá sản TCTD được KSĐB. Những quy định này ghi nhận rõ vị thế và trách nhiệm lớn hơn của BHTGVN trong hệ thống pháp luật về ngân hàng. Điều đó đặt ra yêu cầu BHTGVN cần được tiếp cận sớm và đầy đủ hơn nữa các nguồn thông tin, số liệu, đồng thời có cơ chế tham gia đóng góp ý kiến đối với phương án xử lý ngay từ giai đoạn phát hiện dấu hiệu suy yếu và triển khai biện pháp can thiệp sớm đối với TCTD.
Hơn nữa, Dự thảo Luật BHTG (sửa đổi) hiện đang được NHNN trình Chính phủ cũng đã bổ sung nhiều nội dung nhằm đảm bảo tính đồng bộ với Luật Các TCTD (2024). Trong đó, dự thảo dự kiến bổ sung một số nội dung yêu cầu cụ thể hóa về quyền và nghĩa vụ của tổ chức BHTG trong việc phối hợp và trao đổi thông tin với NHNN, đặc biệt là qua công tác kiểm tra theo kế hoạch, nội dung do NHNN giao; tham gia vào quá trình xử lý TCTD yếu kém được can thiệp sớm, KSĐB; tham gia xử lý sự cố, khủng hoảng trong hoạt động của TCTD.
Một số gợi mở cho việc hình thành Mạng an toàn tài chính và vai trò của tổ chức BHTG trong Mạng an toàn tài chính tại Việt Nam
Từ thực tế triển khai công tác phối hợp, trao đổi thông tin giữa BHTGVN và NHNN, cùng với các yêu cầu, nhiệm vụ mới được giao cho BHTGVN theo Luật Các TCTD (2024) và dự thảo Luật BHTG (sửa đổi), đặt ra hàm ý cần xem xét hình thành một Mạng an toàn tài chính tại Việt Nam. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia trong khu vực cho thấy việc thiết lập một Mạng an toàn tài chính chính thức, có cơ sở pháp lý và cơ chế phối hợp rõ ràng, đầy đủ là điều kiện tiên quyết để bảo vệ tốt hơn cho người gửi tiền và duy trì ổn định hệ thống tài chính. Các quốc gia như Hàn Quốc, Nhật Bản hay Indonesia đều có khuôn khổ chính thức, quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của từng cơ quan trong Mạng an toàn tài chính, đồng thời thiết lập cơ chế phối hợp và chia sẻ thông tin rõ ràng, minh bạch.
Tại Việt Nam, các thành phần cơ bản của Mạng an toàn tài chính đã hiện diện đầy đủ và đang hoạt động theo chức năng được giao trong hệ thống pháp luật hiện hành, bao gồm: NHNN chịu trách nhiệm thực hiện chức năng người cho vay cuối cùng, quản lý và giám sát an toàn, xử lý tổ chức tín dụng yếu kém; Bộ Tài chính thực hiện chính sách tài khóa và thanh tra, giám sát hoạt động thị trường và công ty chứng khoán, bảo hiểm; và BHTGVN thực hiện chức năng BHTG, bảo vệ người gửi tiền.
Trong bối cảnh Việt Nam đang ngày càng hội nhập tài chính quốc tế, việc luật hóa và thể chế hóa Mạng an toàn tài chính là một yêu cầu cần được sớm xem xét. Do vậy, để xây dựng Mạng an toàn tài chính hiệu quả tại Việt Nam, một số gợi mở được đặt ra như sau:
Thứ nhất, thiết lập khuôn khổ pháp lý chính thức: xem xét việc xây dựng, thiết lập khuôn khổ pháp lý rõ ràng về Mạng an toàn tài chính theo hướng quy định rõ về khái niệm, thành phần, vai trò, chức năng, thẩm quyền của từng cơ quan và cơ chế điều phối hai chiều giữa các cơ quan và liên cơ quan. Trong đó, nhiệm vụ và quyền hạn của các thành viên trong Mạng an toàn tài chính cần được cụ thể trong từng giai đoạn từ khi bình thường đến khủng hoảng đảm bảo sẵn sàng ứng phó từ sớm từ xa khi có sự cố phát sinh.
Thứ hai, hoàn thiện cơ chế phối hợp trong lĩnh vực ngân hàng: cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế cung cấp trao đổi và chia sẻ thông tin giữa BHTGVN và NHNN theo hướng ban hành quy định có liên quan đến việc tiếp cập thông tin, dữ liệu về các tổ chức tham gia BHTGVN đảm bảo kịp thời, đầy đủ, có phân quyền rõ ràng cho BHTGVN, đặc biệt là cần có quy định về cơ chế chia sẻ thông tin trực tuyến thời gian thực (real-time) trong các tình huống khẩn cấp. Đồng thời, thiếp lập cơ chế mô phỏng ứng phó, kiểm tra sức chịu đựng định kỳ nhằm nâng cao khả năng phối hợp thực tế giữa hai cơ quan trong xử lý khủng hoảng hệ thống, nhất là trong công tác xử lý TCTD yếu kém, ứng phó trong tình huống rút tiền hàng hoạt và chi trả BHTG.
Thứ ba, tăng cường vai trò của BHTGVN trong công tác cảnh báo sớm và xử lý khủng hoảng: sau khi Luật BHTG (sửa đổi) có hiệu lực cần sớm có các văn bản hướng dẫn thi hành Luật trong đó hướng dẫn chi tiết về việc BHTGVN được thu thập thông tin, phân tích và chia sẻ dữ liệu từ NHNN và các tổ chức tham gia BHTG nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra tại Luật BHTG (sửa đổi). Bên cạnh đó, cần có cơ chế thuận lợi hơn cho BHTGVN trong việc trao đổi, kiến nghị với NHNN và nhận phản hồi kịp thời đối với các biện pháp phòng ngừa rủi ro mà BHTGVN đề xuất trong quá trình thực hiện nghiệp vụ.
Qua đó, với việc hoàn thiện khuôn khổ cho Mạng an toàn tài chính tại Việt Nam, cũng như hoàn thiện hành lang pháp lý, thiết lập cơ chế phối hợp liên cơ quan chặt chẽ, cùng với sự chủ động chia sẻ thông tin, chuyên nghiệp trong giám sát từ xa, kiểm tra tại chỗ và tham gia xử lý của tổ chức BHTG, sẽ góp phần nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống tài chính – ngân hàng, bảo vệ tốt hơn quyền lợi chính đáng của người gửi tiền, đồng thời củng cố niềm tin công chúng và giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô./.
Phạm Bảo Lâm
Chủ tịch Hội đồng quản trị BHTGVN




